Phân bố Tiếng_Dai_Zhuang

Johnson (2011b) chia Thu Lao ra thành 4 phương ngữ theo cách thức thanh điệu phân tách: Bắc, Trung, Nam và Đông Bắc.

Tại Việt Nam, tiếng Thu Lao (nội danh La Hừ, nghĩa là 'đất đen') được nói ở 7 làng (Nguyễn Hùng Mạnh 2014:14).[2]

  • Huyện Mường Khương, Lào Cai
    • Tả Gia Khâu
      • La Hờ (48 hộ gia đình, 228 nhân khẩu)
      • La Măng (26 hộ gia đình, 123 nhân khẩu)
      • Lũng Thắng (15 hộ gia đình, 71 nhân khẩu)
    • Tào Túng, xã Thanh Bình, Mường Khương, Lào Cai (5 hộ gia đình, 28 nhân khẩu)
  • Huyện Si Ma Cai, Lào Cai
    • Sin Chải, xã Thảo Chư Phìn (42 hộ gia đình, 199 nhân khẩu)
    • Khuốn Pống, xã Bản Mộ (29 hộ gia đình, 138 nhân khẩu)
    • Tả Chải, xã Nàn Sán (71 hộ gia đình, 337 nhân khẩu)

Jerold Edmondson mô tả tiếng Thu Lao ở Việt Nam là một ngôn ngữ Thái Trung Tâm với khoảng 200 người nói giữ lại các phụ âm đầu với thanh điệu thấp, như tiếng Tày của huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.[3]

Vân Nam (1979)[4] báo cáo rằng có một nhóm người nói tiếng Thái gọi là người Pa Dí (tiếng Hoa: Bài Di 摆彝) sống ở thành phố Văn Sơn, huyện Mã Quan và thị trấn Kiều Đầu (桥头) của huyện tự trị Dao Hà Khẩu. Vân Nam (1979) cho thấy nó có thể giống với tiếng Tày Lự. Bài Di được phân loại là người dân tộc Đại ở Hà Khẩu và Tráng ở Yên Sơn và Mã Quan. Năm 1960, Bài Di có dân số là 6,958.